70% nguyên nhân là do mức bồi thường không thỏa đáng
Trong những năm qua, có đến 70% số
trường hợp khiếu tố trên cả nước thuộc về lĩnh vực đất đai, trong đó
nguyên nhân mức bồi thường đất không thỏa đáng, chiếm đến 70% trong tổng
số đơn thư khiếu tố đất đai. Thực trạng này đã và vẫn đang được xem là
một "điểm nóng" của xã hội và cho tới nay chưa hề có dấu hiệu bớt căng
thẳng.
Một trong những nguồn cơn chính của tình
trạng đó là khi thực hiện công tác bồi thường giải phóng mặt bằng,
nhiều chủ đầu tư dự án đã tìm nhiều biện pháp ép người dân nằm trong
diện phải giải tỏa phải chịu mức giá thấp hoặc không ngang bằng với giá
thị trường. Có những trường hợp người bị giải tỏa rơi vào tình thế trắng
tay sau khi buộc phải nhận tiền đền bù - vấn nạn mà họ gọi là "nạn cướp
đất".
Trong nhiều trường hợp khác, khi không
ép được người phải giải tỏa nhận tiền đền bù thiếu thỏa đáng, chủ dự án
đã tạo ra một thứ "dịch vụ" bằng cách nhờ đến sự can thiệp của chính
quyền địa phương nơi tiến hành dự án.
"Dịch vụ" này liên quan mật thiết đến
biện pháp cưỡng chế hành chính, có khi cưỡng chế thô bạo, bỏ mặc lời
khẩn cầu của đối tượng bị giải tỏa.
Từ việc thỏa thuận mang tính dân sự
thuần túy, những biện pháp ép buộc và cưỡng chế hành chính đã vô hình
trung biến hành vi dân sự thành yếu tố có tính hình sự, lại càng làm cho
người dân bất bình và dẫn đến nhiều hơn phản ứng khiếu kiện, khiếu tố
về đất đai, khiến cho các cơ quan công quyền phải mất rất nhiều thời
gian để giải quyết.
Lại hành chính hóa việc thu hồi đất
Gần đây, có thông tin cho biết một quy
định mới về "tiếp cận đất đai" đang được dự thảo và đề xuất bởi Tổng cục
Quản lý đất đai - Bộ Tài nguyên và Môi trường (xem bài "Tiếp cận đất đai: Nhà đầu tư sẽ "dễ thở" hơn?", VnEconomy ngày 26/7/2011). Trong đó, Tổng cục Quản lý đất đai đề xuất hai phương án:
Thứ nhất, bỏ việc nhà đầu tư tự
thoả thuận việc mua đất để thực hiện dự án phát triển kinh tế, thay vào
đó Nhà nước thu hồi đất đối với mọi trường hợp.
Thứ hai, vẫn giữ cơ chế nhà đầu
tư tự thoả thuận việc mua đất, nhưng bổ sung theo hướng trường hợp nhà
đầu tư mua được trên 80% diện tích đất cho dự án, hoặc mua được đất của
trên 80% số chủ sử dụng ở trong khu vực dự án, mà phần diện tích đất còn
lại, hoặc số chủ sử dụng đất còn lại nhà đầu tư không thoả thuận được,
thì Nhà nước ra quyết định thu hồi đất.
Chiếu theo Luật Đất đai, có quy định là
nhà đầu tư phải tự thỏa thuận với người sử dụng đất khi muốn triển khai
dự án đầu tư; còn nhà nước chỉ quyết định thu hồi đối với một số dự án
đầu tư quan trọng.
Đối với quy định này, theo nhận xét của
ông Lê Thanh Khuyến, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Quản lý đất đai, đã
giúp giảm áp lực trong việc thu hồi đất bằng các quyết định hành chính,
nhưng trên thực tế lại tạo ra sự bất bình đẳng giữa chủ đầu tư các dự án
lớn (được nhà nước ra quyết định thu hồi) và dự án nhỏ (tự thỏa thuận).
Hơn nữa, Tổng cục Quản lý đất đai đã ghi
nhận, khi thực hiện cơ chế tự thỏa thuận giữa nhà đầu tư với người sử
dụng đất thì giá thỏa thuận thường cao hơn giá bồi thường dẫn tới khó
khăn cho việc thu hồi đất của dự án khác trong cùng địa bàn. Một thống
kê của cơ quan này cũng cho hay một số dự án đã thỏa thuận được trên 90%
diện tích đất nhưng vẫn không hoàn tất được việc thu hồi đất do 10% còn
lại không đồng ý nhưng không có cơ chế xử lý.
Vậy những lý do mà Tổng cục Quản lý đất
đai nêu ra đã đủ thuyết phục cho việc soạn thảo một quy định mới về thu
hồi đất hay không? Cần nhắc lại, theo những thông tin từ chính Bộ Tài
nguyên và Môi trường (VietNamNet ngày 6/8/2006), có đến 70% trong tổng
số trường hợp khiếu tố về đất đai là vể giá đất tính bồi thường thấp hơn
so với giá thị trường, 20% là khiếu nại đòi bồi thường thêm theo giá
đất mới. Thông thường, điều mà người chịu giải tỏa yêu cầu là "giá bồi
thường hợp lý".
Thực tế, những người trong cuộc (người
bị giải tỏa, chủ dự án và cơ quan quản lý nhà nước) đều nằm lòng "chủ
trương" bồi thường cho người dân của không ít chủ dự án là đi từ thấp
đến cao, ban đầu đưa ra mức giá thấp với nhiều lý do nhằm buộc người dân
phải chấp nhận, sau đó nếu thấy khó khăn và bị người dân phản ứng mạnh
mới dần từng bước nâng giá bồi thường lên đến một mức mà người dân có
thể chấp nhận như "giá bồi thường hợp lý". Mức giá hợp lý này đương
nhiên phải cao hơn, hoặc cao hơn hẳn mức giá bồi thường ban đầu được chủ
dự án áp đặt.
Chính khoảng cách giữa "giá bồi thường
hợp lý" với "giá bồi thường" đã làm phát sinh khiếu kiện và phản ứng của
người dân trong những năm qua. Khoảng cách này càng lớn thì mức độ
khiếu kiện càng trầm trọng. Việc xử lý khoảng cách này đã được Luật Đất
đai quy định là tự thỏa thuận, cũng là một phương thức làm nhẹ bớt căng
thẳng xã hội.
Đừng "đổ thêm dầu vào lửa"
Nay, với hai phương án mà Tổng cục Quản
lý đất đai đề xuất đề thiên về biện pháp hành chính là "thu hồi đất",
liệu có phải là một động tác "đổ thêm dầu vào lửa"? Nếu đề xuất này được
cấp trên thông qua và ban hành, đúng là nhiều chủ dự án sẽ "dễ thở" vì
họ lại được trở về với không khí ưu đãi trước khi có quy định về cơ chế
tự thỏa thuận giá bồi thường. Với ưu đãi mang tính đặc quyền này, họ sẽ
lại được quyền đưa ra những mức giá đền bù thấp hơn hẳn giá thị trường,
còn nếu người bị giải tỏa không đồng ý thì họ luôn có thể dùng tới biện
pháp "dịch vụ" - nhờ vả sự can thiệp của chính quyền địa phương để hành
chính hóa việc thu hồi đất thông qua hoạt động cưỡng chế.
Cũng cần nhắc lại là hoạt động khiếu
kiện đất đai hiện nay đã khác nhiều với cách đây gần mười năm. Trước năm
2005, hoạt động này chỉ diễn ra lẻ tẻ, rời rạc, mang tính cá nhân đơn
lẻ. Nhưng những năm sau đó, khiếu kiện đất đai dần trở nên một hoạt động
mang tính xã hội, có liên kết và có tổ chức giữa các nhóm cá nhân, thậm
chí giữa các địa phương.
Trong quan điểm giải quyết vấn đề đất
đai, Nhà nước không bao giờ lại muốn hoạt động này chịu áp lực của những
căng thẳng không đáng có, cũng như không nên để vấn đề này trở thành
một "điểm nóng" mà khiến cho Nhà nước lẫn người dân đều phải bức xúc và
khó nghĩ trong các cuộc đối thoại.
Thế nên việc những cơ quan quản lý nhà
nước về đất đai như Tổng cục Quản lý đất đai dự kiến ban hành những quy
định liên quan đến công tác bồi thường giải phóng mặt bằng, thu hồi
đất... , cần được cân nhắc cẩn trọng về tính khả thi lẫn xem xét tổng
hòa trên phương diện xã hội - chính trị, hạn chế đến mức tối thiểu khả
năng xảy ra tiêu cực từ cán bộ thực hiện bồi thường, mang lại công bằng
cho người dân bị giải tỏa.