Chuyên gia cho biết, thị trường bất động sản tại TPHCM thời gian qua chỉ tập trung phân khúc cao cấp. Nhà ở xã hội, nhà vừa túi tiền chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ, không đáp ứng nhu cầu thực của người dân.
Trong những năm vừa qua, giá nhà ở tại TPHCM liên tục lập đỉnh khiến khả năng tiếp cận của đại bộ phận người dân còn hạn chế.
Cụ thể hơn, các dự án nhà ở trên địa bàn hầu như nhắm vào phân khúc trung cấp và cao cấp, không đáp ứng nhu cầu thực tế của người dân.
Dịch Covid-19 khiến hầu hết các lĩnh vực trên địa bàn thành phố bị tác động tiêu cực, tuy nhiên, giá bất động sản, căn hộ không ngừng leo thang.
Trao đổi với phóng viên bên lề hội thảo tháo gỡ vướng mắc, thúc đẩy đầu tư trong lĩnh vực bất động sản diễn ra sáng 27/5, các chuyên gia cho rằng, vấn đề chính của những bất cập trên đến từ sự "lệch pha phân khúc thị trường".
Điểm nghẽn về hấp thụ vốn
Tiến sĩ Trần Du Lịch, Ủy viên Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia, nêu thực trạng, nhà ở, chung cư tại TPHCM đang có sức cầu quá cao so với nguồn cung.
Do vậy, dù thành phố mới trải qua dịch Covid-19, giá nhà ở, chung cư hầu như tháng nào cũng tăng, giá bị đẩy lên cao.
TS Trần Du Lịch cho biết, thị trường bất động sản TPHCM đang gặp nhiều vấn đề cần tháo gỡ.
"Điều này cho thấy điểm nghẽn ở khâu hấp thụ vốn. Đại dịch, các vấn đề thay đổi về cấp giấy phép đầu tư, giá đất khiến 2 năm qua, TPHCM có hàng trăm dự án đang bị vướng. Đây là điểm cần tháo gỡ để tạo thêm nguồn cung cho thị trường", ông Lịch phân tích.
Ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TPHCM, chia sẻ, năm 2017 là thời điểm thị trường bất động sản tại TPHCM phát triển đỉnh cao, với khoảng 30.000 căn hộ được đưa vào thị trường. Đến năm 2021, số lượng chỉ trên dưới 15.000 căn và ở mức rất thấp trong những tháng đầu năm 2022.
"TPHCM có tình trạng lệch pha phân khúc thị trường. Tức là, nhà ở chỉ tập trung chủ yếu vào phân khúc cao cấp, phân khúc trung - cao cấp chiếm phần còn lại, số lượng nhà ở vừa túi tiền gần như không có", Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TPHCM nêu vấn đề.
Cụ thể, trong năm 2021, 74% sản phẩm nhà ở đưa vào thị trường tại TPHCM là cao cấp, chỉ 26% còn lại ở phân khúc trung - cao cấp.
Bên cạnh đó, trong giai đoạn 2015-2020, thành phố có trung bình 3.000 căn nhà ở xã hội được hình thành mỗi năm. Dù tỷ lệ này cao hơn trung bình cả nước, nhưng thực tế còn rất khiêm tốn so với nhu cầu người dân.
Nói về giải pháp cho thực trạng trên, TS Trần Du Lịch cho rằng, trước mắt, địa phương cần tập trung tháo gỡ vướng mắc cho từng dự án cụ thể. Bước tiếp theo là mở hành lang pháp lý để hình thành những dự án nhà ở mới.
"Hiện nay, Trung ương, Quốc hội đang bàn về vấn đề chồng chéo giữa các quy định pháp luật liên quan. Chúng ta có thuận lợi là Hội nghị Trung ương 5 vừa rồi có chỉ đạo việc sửa đổi Luật Đất đai và hàng loạt luật khác liên quan", ông Trần Du Lịch thông tin.
Nên hay không việc siết tín dụng BĐS?
Nhắc lại tầm quan trọng của lĩnh vực bất động sản, ông Trần Du Lịch chỉ rõ, đây là một trong những động lực phát triển của TPHCM, là một bộ phận chủ lực, không thể thiếu với nền kinh tế đô thị.
Ngoài các vấn đề về quy trình, thủ tục, các doanh nghiệp đang gặp khó khăn nhất định đối với dòng tiền đầu tư vào lĩnh vực này.
Tuy nhiên, các dự án bất động sản khả thi, dự án đầu tư khu công nghiệp, bất động sản nghỉ dưỡng, thương mại, dịch vụ vẫn cần được tạo điều kiện thuận lợi nhất về dòng vốn, tín dụng.
Đặc biệt, các cơ quan quản lý cần có chính sách khác nhau, không cào bằng giữa những doanh nghiệp hoạt động tốt và những đơn vị có vấn đề.
Các dự án bất động sản khả thi vẫn cần được tạo điều kiện về vốn.
Ông Lê Hoàng Châu đưa nêu thực trạng, vừa qua, một số nhà đầu tư đã lợi dụng các cuộc đấu giá quy mô lớn để phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
Những đơn vị này đã bị xử lý về mặt pháp luật và một số cơ quan Nhà nước có xu thế siết chặt tín dụng, siết trái phiếu doanh nghiệp.
Theo quy định pháp luật, nhà đầu tư thực hiện dự án có quy mô dưới 20ha cần có vốn sở hữu tối thiểu 20% giá trị, trên 20ha cần tối thiểu 15%.
Do vậy, hệ thống ngân hàng thương mại đóng vai trò là "bà đỡ" để các doanh nghiệp huy động được 75-80% nguồn vốn đầu tư còn lại.
Tuy nhiên, theo lộ trình, đến tháng 9/2023, các ngân hàng thương mại chỉ được dùng tối đa 30% nguồn vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung hạn và dài hạn. Do vậy, việc phát hành trái phiếu vẫn là nguồn vốn quan trọng đối với các doanh nghiệp.
"Hiện tại, nguồn vốn từ trái phiếu doanh nghiệp vẫn còn dư địa lớn. Tuy nhiên, rủi ro của chúng ta nằm ở chất lượng trái phiếu phát hành, còn những trái phiếu không đạt chuẩn mực, không đảm bảo an toàn. Đây là điều cần chấn chỉnh thời gian tới", ông Châu nêu giải pháp.
Nhadat24h.net- theo báo xây dựng.